HỘI CHỨNG ỐNG CỔ TAY (CARPAL TUNNEL SYNDROME)

05/04/2024

Hội chứng ống cổ tay (HCOCT) là tập hợp các triệu chứng và dấu hiệu đặc trưng xảy ra khi có sự chèn ép thần kinh giữa trong ống cổ tay. Là bệnh lý chèn ép thần kinh thường gặp nhất ở chi trên, với khoảng 500.000 trường hợp mỗi năm tại Mỹ, ở Anh Quốc cứ mỗi 1000 người có 70-160 trường hợp. Bệnh thường gặp ở nữ (tỷ lệ nữ:nam khoảng 3-10:1), lứa tuổi trung niên 45-60 tuổi, 50-60% trường hợp bệnh nhân bị cả hai bên cổ tay. Triệu chứng thường gặp bao gồm tê bì, dị cảm (kim châm, kiến bò, buốt lạnh, nhồn nhột…), đau, có thể kèm theo yếu cơ bắp nơi thần kinh giữa chi phối ở bàn tay. Hội chứng ống cổ tay tuy không nguy hiểm đến tính mạng nhưng có thể dẫn tới tình trạng tổn thương thần kinh giữa hoàn toàn, không hồi phục, hậu quả gây suy giảm cảm giác và chức năng vận động nặng nề nếu không chữa trị.

I/ Giải phẫu ống cổ tay:

Ống cổ tay là cấu trúc ở mặt lòng ngang mức cổ tay, gồm bốn mặt (Hình 1):

  • Phía trước là dây chằng ngang cổ tay (TCL – transver carpal ligament)
  • Bên ngoài dây chằng ngang bám vào củ xương thuyền (scaphoid) và xương thang (trapezium)
  • Bên trong dây chằng ngang bám vào xương đậu (pisiform) và móc của xương móc (hook of hamate)
  • Phía sau: hàng gần xương cổ tay và các dây chằng mặt lòng cổ tay ngoại lai

Ống cổ tay chứa (Hình 1):

  • Thần kinh giữa (Median nerve)
  • Gân gấp ngón cái dài (FPL – flexor pollicis longus tendon)
  • 4 gân gấp các ngón nông (FDS – flexor digitorum superficialis)
  • 4 gân gấp các ngón sâu (FDP – flexor digitorum profundus)

II/ Nguyên nhân sinh bệnh:

1. HCOCT tự phát (vô căn):

Thể tự phát (vô căn) là thể bệnh thường gặp nhất ở người lớn. Quá trình sinh bệnh diễn ra khi thần kinh giữa bị tổn thương bên trong ống cổ tay cứng nhắc chật hẹp, bắt đầu với tình trạng mất myelin và theo sau là sự thoái hóa các axon. Các sợi cảm giác thường bị tổn thương đầu tiên rồi đến các sợi vận động, bệnh cũng có thể ảnh hưởng đến các dây thần kinh tự động đi kèm với thần kinh giữa.

Nguyên nhân chính xác gây nên các tổn thương này vẫn còn tranh cãi, tuy nhiên có sự tăng áp bất thường bên trong ống cổ tay ở bệnh nhân mắc HCOCT, đặc biệt ở những người có ống cổ tay nhỏ, áp lực này làm tắc nghẽn dòng máu tĩnh mạch, gây phù ứ dịch và cuối cùng dẫn đến thiếu máu thần kinh.  Áp suất bình thường trong ống cổ tay khoảng 2.5 mmHg, khi áp suất trên 20 mmHg sẽ giảm lưu lượng mạch máu bề mặt thần kinh gây phù dây thần kinh, khi áp suất trên 30 mmHg dẫn truyền thần kinh sụt giảm rõ rệt.

Nguy cơ hình thành HCOCT thường cùng lúc liên quan với nhiều yếu tố dịch tễ khác nhau bao gồm di truyền, y tế, xã hội, nghề nghiệp, thói quen và đặc điểm nhân khẩu. Nguyên nhân sinh bệnh trực tiếp HCOCT vẫn chưa sáng tỏ, tuy nhiên chắc chắn tồn tại sự tương tác phức tạp giữa các yếu tố dịch tễ đã nêu dẫn đến hình thành bệnh lý. 

Yếu tố nguy cơ toàn thân thường gặp gồm nữ giới, béo phì, mang thai, đái tháo đường, suy tuyến giáp, suy thận mạn, bệnh dự trữ, viêm khớp dạng thấp, thiếu hụt vitamin, nghiện rượu, hút thuốc lá, lớn tuổi và phơi nhiễm yếu tố rung (vibratory) nghề nghiệp. Mối liên quan trực tiếp giữa các công việc lặp lại (ví dụ, đánh máy) và HCOCT vẫn chưa được chứng minh.

2. HCOCT thứ phát:

Bất thường thành ống cổ tay:

  • Bất thường hình dạng hoặc vị trí xương cổ tay: trật khớp hoặc bán trật xương cổ tay;
  • Bất thường hình dạng đầu dưới xương quay: gãy xương (di lệch trên 35%) hoặc liền xương lệch; can xương bất thường ở mặt trước xương quay;
  • Bất thường tại khớp: thoái hóa khớp cổ tay, viêm khớp nguyên phát (do hoạt mạc phì đại, biến dạng xương), viêm khớp nhiễm trùng, thoái hóa khớp thang-bàn, viêm hoạt mạc thể lông nốt sắc tố;
  • Bệnh to đầu chi.

Bất thường của các cấu trúc trong ống cổ tay:

  • Phì đại bao gân;
  • Viêm bao gân nguyên phát: viêm khớp dạng thấp, lupus, nhiễm trùng;
  • Viêm bao gân do chuyển hóa: đái tháo đường, bệnh dự trữ (bệnh tích tụ amyloid – amyloidosis; bệnh tích tụ mucopolysaccharic – thể bệnh thường gặp nhất ở trẻ em), bệnh gout, bệnh giả gout (lắng đọng canxi pyrophosphat);
  • Bất thường phân bố dịch: mang thai (đặc biệt ở tam cá nguyệt thứ ba); suy giáp; suy thậm mạn (do cầu nối động tĩnh mạch nhân tạo);
  • Bất thường hoặc dư thừa cơ bắp: có cơ gan tay sâu, thân cơ nằm trong ống cổ tay (cơ gấp các ngón nông, cơ giun bàn tay);
  • Còn động mạch giữa (persistent median artery) (là một cấu trúc sinh lý phôi thai) hoặc phì đại động mạch của thần kinh giữa;
  • Bướu trong ống cổ tay: bưới mỡ, u nang hoạt dịch, sarcoma hoạt mạc hoặc u thần kinh (u xơ thần kinh, u xơ mỡ, u tế Schwann)
  • Bướu máu: bệnh hemophilia, chấn thương ở bệnh nhân dùng chống đông;
  • Béo phì

3. HCOCT thể cấp cứu:

Đặc trưng bởi sự khởi phát tiến triển nhanh của các triệu chứng tổn thương thần kinh giữa, do tăng áp đột ngột và thường trực trong lòng ống cổ tay dẫn tới thiếu máu nuôi thần kinh giữa, cần chỉ định phẫu thuật giải áp cấp cứu (cần phân biệt với HCOCT vô căn mới khởi phát). Các nguyên nhân có thể do:

  • Chấn thương (thường gặp nhất): gãy đầu dưới xương quay di lệch hoặc trật khớp cổ tay;
  • Nhiễm trùng;
  • Xuất huyết do quá liều chống đông hoặc bệnh hemophilia;
  • Tăng áp ống cổ tay do tiêm chích;
  • Huyết khối cấp tính trong động mạch của thần kinh giữa;
  • Bỏng.

III/ Biểu hiện lâm sàng:

Hình 2: Phân bố biểu hiện triệu chứng của thần kinh giữa ở bàn tay (vùng màu tím) (https://www.leagravetherapy.co.uk/carpal-tunnel-syndrome)

1. Triệu chứng:

Biểu hiện phổ biến của HCOCT là tê, ngứa ran (thường vào buổi tối) mặt lòng 3 ngón rưỡi ngoài bàn tay, theo phân bố giải phẫu cảm giác của thần kinh giữa (Hình 2). Thường đi kèm với triệu chứng đau ở giữa cổ tay, đau có thể lan xuống lòng bàn tay và ngón tay, hoặc thường gặp hơn là lan lên vùng giữa cẳng tay, cơn đau và dị cảm có thể đánh thức bệnh nhân vào ban đêm. Bệnh nhân cũng hay than phiền về sự “vụng về” của bàn tay hoặc đồ vật tự trượt khỏi tay mà không để ý. Dấu hiệu giũ cổ tay (flick sign) có độ nhạy 93% và độ đặc hiệu 96%, với biểu hiện tỉnh dậy cùng các triệu chứng đã nêu khiến bệnh nhân phải lắc cổ tay nhiều lần để bớt khó chịu.

Các triệu chứng không thường gặp khác bao gồm dị cảm toàn bộ bàn tay, cảm giác căng, sưng phồng bàn tay và/hoặc cảm giác thay đổi nhiệt độ bàn tay (thường là biểu hiện lạnh bàn tay thường xuyên), thay đổi màu sắc da tay. Trường hợp hiếm có biểu hiện tăng tiết mồ hôi tay.

2. Thăm khám:

Hình 3: biểu hiện teo cơ mô cái (mũi tên xanh dương) (https://www.orthobullets.com/hand/6018/carpal-tunnel-syndrome)

Nhìn có thể phát hiện teo cơ mô cái (Hình 3) (thenar atrophy), là chỉ báo của tổn thương thần kinh nặng. Giai đoạn muộn thường biểu hiện yếu cơ và giảm chức năng vận động tinh vi, giảm hoặc mất khả năng phân biệt 2 điểm. Có nhiều nghiệm pháp (test) được đề xuất để chẩn đoán HCOCT:

  • Durkan’s test (Hình 4): là test rất tốt để chẩn đoán HCOCT với độ nhạy 89% và độ đặc hiệu 96%, thực hiện bằng cách ấn mạnh ngón cái lên ống cổ tay và giữ nguyên áp lực 30 giây liên tục. Test dương tính khi bệnh nhân khởi phát đau hoặc dị cảm theo phân bố thần kinh giữa trong vòng 30 giây.
Hình 4: Durkan’s test (https://www.nejm.org/doi/full/10.1056/NEJMvcm1407111)
  • Phalen’s test: gập lòng cổ tay tối đa thụ động bằng cách áp mu hai bàn tay vào nhau 60 giây. Test dương tính khi khởi phát các triệu chứng thần kinh của HCOCT. Test đặc hiệu (80%) nhưng có độ nhạy thấp.
  • Tinel’s test: cũng là một loại test khởi phát, thực hiện bằng cách gõ vào thần kinh giữa ở vị trí ống cổ tay. Thường được các nhà lâm sàng áp dụng nhưng lại có độ nhạy và đặc hiệu thấp.
  • Test Semmes-Weinstein monofilament (Hình 5): là test cảm giác có độ nhạy cao nhất để phát hiện sớm HCOCT, do các thần kinh cảm giác sợi to (nhận cảm sờ nhẹ, rung) bị ảnh hưởng trước sợi nhỏ (nhận cảm đau, nhiệt). Tuy nhiên khả năng ứng dụng thấp do vấn đề thời gian kéo dài, cơ sở vật chất hạn chế và sự phổ biến của điện học chẩn đoán.
Hình 5: Test Semmes-Weinstein monofilament (Schreuders, Ton & Selles, Ruud & Ginneken, Berbke & Janssen, Wim & Stam, Henk. (2008). Sensory Evaluation of the Hands in Patients with Charcot-Marie-Tooth Disease Using Semmes-Weinstein Monofilaments. Journal of hand therapy : official journal of the American Society of Hand Therapists. 21. 28-34; quiz 35. 10.1197/j.jht.2007.07.020.)

3. Các thể lâm sàng:

– Cấp tính: các triệu chứng khởi phát đột ngột, thường sau những va chạm trực tiếp ở cổ tay hoặc các vận động quá tải (ví dụ: nắm tay ga lâu khi đi xe máy đường dài). Bệnh thường tự thuyên giảm trong thời gian ngắn nếu BN được nghỉ ngơi và điều trị bảo tồn thích hợp.

– Mạn tính: các triệu chứng biểu hiện từ từ, tăng dần từ vài tháng đến vài năm. Bệnh sinh chủ yếu là vô căn hoặc có thể thứ phát bởi những nguyên nhân đã liệt kê ở trên mà không được giải quyết trong thời gian dài. Phần lớn HCOCT mạn tính đáp ứng với điều trị bảo tồn mà không cần phẫu thuật, tuy nhiên tiên lượng phục hồi thường kém khi đã có biểu hiện tổn thương thần kinh nặng (teo cơ mô cái, yếu – liệt cơ do thần kinh giữa chi phối).

– Cấp cứu: đặc trưng bởi sự tiến triển nhanh các triệu chứng thần kinh do những nguyên nhân cấp tính (thường gặp nhất là chấn thương) khiến áp suất trong lòng ống cổ tay cao thường trực. Nếu không điều trị kịp thời có thể khiến thần kinh giữa bị tổn thương không hồi phục do thiếu máu nuôi trong thời gian ngắn.

IV/ Hình ảnh học:

Hình 6: Hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) mặt phẳng ngang của ống cổ tay. Thần kinh giữa (chữ vàng, Median n.) (https://www.orthobullets.com/hand/6018/carpal-tunnel-syndrome)

Nhìn chung, không dùng các phương tiện chẩn đoán hình ảnh một cách thường quy trong chẩn đoán HCOCT. Hình ảnh cộng hưởng từ (MRI) (Hình 6) trước phẫu thuật đặc biệt hữu dụng nếu chẩn đoán nghi ngờ có sang thương choáng chỗ trong ống cổ tay. Vai trò của siêu âm cũng đang tăng dần trong chẩn đoán HCOCT nhờ khả năng phát hiện sang thương choáng chỗ, bất thường của thần kinh giữa (ví dụ tăng diện tích thiết diện) và giúp hướng dẫn chích steroid vào ống cổ tay.

V/ Điện học chẩn đoán (electrodiagnostic study):

Bao gồm đo tốc độ dẫn truyền thần kinh (nerve conduction velocity – NCV) và điện cơ đồ (electromyography – EMG) (Hình 7). Điện học chẩn đoán là kỹ thuật đầu tay để xác định chẩn đoán HCOCT, cung cấp bằng chứng khách quan của bệnh lý chèn ép thần kinh có giá trị trong chẩn đoán bệnh nghề nghiệp.

Tốc độ dẫn truyền thần kinh (NCV):

  • Chỉ thể hiện các sợi thần kinh kích thước lớn có myelin.
  • Thời gian tiềm cảm giác ngoại vi (distal sensory latencies) > 3.5 ms hoặc thời gian tiềm vận động (motor latencies) > 4.5 ms là bất thường.
  • Biểu hiện giảm tốc độ dẫn truyền (conduction velocity) < 52m/s và giảm biên độ đỉnh (peak amplitude) ít nhạy hơn.

Điện cơ đồ (EMG):

  • Kiểm tra hoạt động điện của các sợi cơ hoặc các đơn vị vận động đơn lẻ bằng cách ghi nhận các hoạt động điện do đâm kim và hoạt động điện tự phát.
  • Biểu hiện bệnh lý có thể gặp: tăng hoạt động điện do đâm kim (insertional activity), các sóng nhọn dương (positive sharp waves), rung và/hoặc co giật cơ (fibrillation and/or fasciculation).

Điện học chẩn đoán có thể cung cấp kết quả chính xác về mức độ nặng của tổn thương thần kinh, từ đó trực tiếp hỗ trợ cho quyết định điều trị cũng như là thông tin khách quan cho việc tiên lượng sau phẫu thuật. HCOCT thường được chia thành ba mức độ:

  • Nhẹ: chỉ có bất thường cảm giác trên điện học
  • Trung bình: bất thường cảm giác và vận động trên điện học
  • Nặng: có bằng chứng mất sợi axon (ví dụ, mất hoặc giảm đáp ứng cảm giác hoặc vận động ngoại vi ống cổ tay hoặc các bất thường trên điện cơ kim)

Bệnh nhân có kết quả điện học mức độ nặng thường cải thiện kém hơn các nhóm bệnh nhân khác. Thay đổi qua các lần thực hiện điện học chẩn đoán cũng giúp đánh giá đáp ứng của phương thức điều trị đang áp dụng.

VI/ Chẩn đoán HCOCT:

Dù điện học có giá trị lớn nhưng nó không thực sự cần thiết để thiết lập chẩn đoán vì HCOCT là một hội chứng lâm sàng. Chẩn đoán HCOCT dựa vào các biểu hiện lâm sàng:

  • Tê bì và ngứa ran vùng phân bố của thần kinh giữa
  • Tê bì ban đêm
  • Yếu và/hoặc teo cơ mô cái
  • Tinel’s test dương tính
  • Phalen’s test dương tính
  • Mất phân biệt hai điểm

Điện học chẩn đoán có giá trị xác nhận chẩn đoán, xác định độ nặng của bệnh, định hướng điều trị và tiên lượng.

VII/ Chẩn đoán phân biệt:

  • Bệnh rễ thần kinh hoặc tủy cổ
  • Bệnh đám rối thần kinh cánh tay
  • Hội chứng đường thoát ngực (thoracic outlet syndrome)
  • Hội chứng cơ sấp (pronator syndrome) hoặc bệnh chèn ép thần kinh gian cốt trước
  • Bệnh thần kinh trụ với thông nối thần kinh giữa Martin-Gruber
  • Bệnh thần kinh ngoại biên khác (ví dụ, biến chứng thần kinh do đái tháo đường)

VIII/ Điều trị HCOCT:

Điều trị không phẫu thuật:

  • Bảo tồn: thay đổi lối sống, nẹp cổ tay ban đêm, dùng thuốc, vật lý trị liệu.
    • Là điều trị đầu tay cho tất cả các trường hợp.
    • Nẹp cổ tay ban đêm: cố định cổ tay ở tư thế trung tính hoặc hơi duỗi cổ tay, nẹp ban đêm ít nhất 3-4 tuần (Hình 8).
    • Tránh các hoạt động làm nặng thêm bệnh: cầm nắm lâu, xách nặng, công việc có yếu tố rung (ví dụ, máy khoan), các môn thể thao tạo áp lực lên cổ tay (ví dụ: đạp xe, đẩy tạ…).
    • Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs) có ích cho bệnh nhân HCOCT có kèm viêm (ví dụ, viêm gân gấp cổ tay). Vitamin B6 và B12 chưa có bằng chứng có ích trong HCOCT. Có thể chỉ định (off-label) gabapentin và pregabalin nếu có biểu hiện đau thần kinh.
    • Vật lý trị liệu: trị liệu bằng tay, vận động trị liệu, nhiệt trị liệu, siêu âm trị liệu, kích thích điện cơ… cho thấy các kết quả khả quan.
    • Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng (RCT) của Fernández và cộng sự (2017) đăng trên Journal of Orthopaedic and Sport Physical Therapy đã cho thấy hiệu quả của các bài tập kéo dãn và điều trị bằng tay (cả ở cột sống cổ và cổ tay) gần như tương đương với phẫu thuật giải áp ống cổ tay ở thời điểm sau 1 năm điều trị.
Hình 9: tiêm steroid vào ống cổ tay (https://www.researchgate.net/figure/A-corticosteroid-injection-being-performed-for-the-treatment-of-carpal-tunnel-syndrome_fig5_339637169 [accessed 5 Apr, 2022])
  • Tiêm steroid (Hình 9):
    • Là điều trị hỗ trợ cho điều trị bảo tồn hoặc với mục đích chẩn đoán trong trường hợp lâm sàng và điện học không rõ ràng.
    • Tiêm 1 liều corticosteroid đạt thuyên giảm triệu chứng gần 80% sau 6 tuần, nhưng chỉ 20% không tái phát sau 1 năm. Tiêm dưới hướng dẫn siêu âm cho kết quả tốt hơn so với tiêm trực tiếp (Chen 2018).
    • Không cải thiện sau tiêm là dấu hiệu tiên lượng kém, phẫu thuật ít thành công.

Điều trị phẫu thuật:

  • Chỉ định:
    • Thất bại với điều trị bảo tồn (đã tiêm steroid) (cải thiện triệu chứng thoáng qua sau tiêm steroid giúp tiên lượng bệnh nhân sẽ có kết quả phẫu thuật tốt)
    • HCOCT mức độ nặng (trên điện học chẩn đoán)
    • HCOCT thể cấp cứu
Hình 10: Phẫu thuật mổ hở giải phóng ống cổ tay (https://epainhealth.com/before-carpal-tunnel-surgery/)
  • Phương pháp phẫu thuật giải phóng ống cổ tay gồm mổ hở, mổ hở đường mổ nhỏ (Hình 10) hoặc nội soi cắt dây chằng ngang cổ tay:
    • Không cần chỉ định kháng sinh dự phòng nếu phẫu thuật là sạch và được lên chương trình
    • Không cho thấy lợi ích thêm nếu bóc tách thần kinh giữa (median neurolysis), cắt bao gân gấp (flexor tenosynoectomy) hoặc giải phóng mạc cẳng tay (antebrachial fascia).
    • Có thể tổn thương bó mạch trụ trong ống Guyon (ống thần kinh trụ, nằm giữa xương đậu và móc xương móc) nếu đường rạch da quá vào trong.
    • Có thể tổn thương nhánh vận động quặt ngược (recurrent motor branch) của thần kinh giữa nếu đường rạch da quá ra ngoài.
    • Chỉ sửa nối dài dây chằng ngang nếu thực hiện kèm với phẫu thuật sửa gân gấp (hậu phẫu cho phép cố định cổ tay ở tư thế gấp).
    • Rozanski và cộng sự (2015): khoảng 10% bệnh nhân gặp vấn đề trong vòng 24 giờ sau phẫu thuật (tất cả đều nhẹ và thoáng qua) như bung chỉ, chảy máu, rối loạn huyết áp, đau và các vấn đề liên quan như buồn nôn, nôn. Yếu tố nguy cơ gồm: nam giới, từ 45 tuổi trở lên, thời gian mổ kéo dài, có bác sĩ gây mê tham gia (có dùng các phương pháp vô cảm chuyên biệt).
  • Hiệu quả của phẫu thuật giải phóng ống cổ tay:
    • Lực đối ngón sẽ trở lại sau 6 tuần và lực nắm sau 3 tháng.
    •  Đau gốc bàn tay (pillar pain, đau mô cái và mô út cạnh sẹo mổ) thường kéo dài 3-4 tháng sau phẫu thuật.
    • Tỷ lệ cải thiện hoàn toàn triệu chứng hậu phẫu: 55-98% dị cảm; 64-100% đau; 60-75% yếu cơ.
    • Tỷ lệ tái phát triệu chứng ở thời điểm sau 1 năm là 2% ở nhóm bệnh nhân HCOCT mức độ trung bình và 20% nhóm mức độ nặng. Triệu chứng trước mổ càng nặng khả năng hồi phục sau mổ càng kém.
    • Mức độ hài lòng ở thời điểm 6 tháng và 12 tháng cao hơn so với phương thức điều trị bảo tồn hoặc tiêm steroid.
    • BN lớn tuổi chèn ép mạn tính hiếm khi hồi phục hoàn toàn nhận cảm và vận động, tuy nhiên phẫu thuật giúp giảm tốt triệu chứng đau tê ban đêm, cải thiện chức năng và chất lượng sống. tỷ lệ hài lòng >90%.
  • Triệu chứng vẫn còn sau mổ có thể thứ phát do:
    • Cắt không hoàn toàn dây chằng ngang
    • Tổn thương thần kinh giữa do tai biến
    • Hiệu ứng double – crush: hiện tượng khi sợi dẫn truyền bị chặn ở một chỗ sẽ tăng khả năng nó bị tắc nghẽn ở chỗ khác
    • Đồng thời có bệnh thần kinh do cột sống cổ hoặc bệnh thần kinh ngoại biên hoặc sang thương choáng chỗ
  • Mổ nội soi giải phóng ống cổ tay (Hình 11):
    • Ưu điểm: ít đau do sẹo, cải thiện chức năng cầm/đối ngón trong ngắn hạn, thời gian hậu phẫu ngắn, một số nghiên cứu cho thấy độ hài lòng của BN cao hơn. Về dài hạn kết quả tương đương mổ hở.
    • Nhược điểm: tỉ lệ biến chứng có thể cao hơn phương pháp truyền thống, nặng nhất là chấn thương thần kinh trực tiếp, thường gặp nhất là tình trạng cắt không hoàn toàn dây chằng ngang.
  • Mổ lại cho HCOCT phụ thuộc vào việc phát hiện nguyên nhân gây thất bại lần trước, thường gặp nhất do giải phóng mạc ngang không hoàn toàn. Tuy nhiên tiên lượng của mổ lại HCOCT không cao, 75% trường hợp cải thiện ít hoặc không cải thiện.
Hình 11: phẫu thuật nội soi cổ tay (Mark D. Miller (2015), Sport medicine conditions, p. 81)

Hội chứng ống cổ tay rất thường gặp, đặc biệt ở nữ giới lứa tuổi trung niên. Không như quan niệm trước nay cho rằng nguyên nhân sinh bệnh chủ yếu do thói quen vận động lặp đi lặp lại, mà HCOCT là hệ quả của sự tương tác đa yếu tố từ sinh lý, y tế đến xã hội, nhân khẩu học. Điều trị HCOCT mạn tính nên khởi đầu bằng điều trị bảo tồn, giáo dục sức khỏe cho bệnh nhân và loại trừ nguyên nhân (thể bệnh thứ phát), nếu không đáp ứng cần cân nhắc điều trị phẫu thuật. Phẫu thuật giải phóng ống cổ tay là phẫu thuật thông dụng có tỷ lệ thành công cao, tuy nhiên vẫn có biến chứng, mặc khác tiên lượng lại phụ thuộc nhiều vào độ nặng của HCOCT trước phẫu thuật, vì vậy người bệnh cần được thông tin rõ ràng trước khi quyết định điều trị.

Tài liệu tham khảo:

  1. Mark D. Miller, Stephen R. Thompson (2016), Miller’s review of orthopaedics, p. 611-612.
  2. Orrin Franko (2021), Carpal Tunnel Syndrome, Orthobullet, https://www.orthobullets.com/hand/6018/carpal-tunnel-syndrome, truy cập ngày 04/05/2022.
  3. Nigel L. Ashworth (2022), Carpal Tunnel Syndrome Treatment & Management, Medscape, https://emedicine.medscape.com/article/327330-overview, truy cập ngày 04/05/2022.
  4. Chammas, Michel et al. (2014), “Carpal tunnel syndrome – Part I (anatomy, physiology, etiology and diagnosis).” Revista brasileira de ortopedia vol. 49,5 429-36.
  5. Jiménez Del Barrio S, Bueno Gracia E, Hidalgo García C, et al. Conservative treatment in patients with mild to moderate carpal tunnel syndrome: a systematic review. Neurologia (Engl Ed). 2018;33(9):590-601.

Bài viết liên quan